Trong 2 năm 2020-2021 bị tác động nặng nề bởi dịch Covid-19, ngân sách nhà nước (NSNN) và doanh thu của doanh nghiệp (DN) eo hẹp vì thu giảm, chi tăng do hệ quả tất yếu khi buộc phải giãn cách hơn 3 tháng qua tại nhiều địa phương, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam bộ. Hiện Chính phủ đang nỗ lực tính toán để có thêm các nguồn hỗ trợ cho DN và người dân.
Dư địa cho chính sách tài khóa có còn?
- Nợ xấu
- Lãi suất huy động đã ở mức thấp trong lịch sử và so với tỷ lệ lạm phát không còn nhiều khoảng cách
- Năng lực của tổ chức tài chính còn hạn chế
- Đáp ứng vốn tài chính cho nền kinh tế phụ thuộc nhiều hệ thống ngân hàng (NH).
Đặc điểm nền kinh tế nước ta là thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên Chính phủ có trong tay nguồn vật chất rất lớn là DNNN (tổng tài sản 3 triệu tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 1,42 triệu tỷ đồng).
Vì vậy, Chính phủ cần vận dụng đồng bộ cả chính sách tài khóa tiền tệ và đặc biệt sử dụng DNNN như công cụ linh hoạt để phục hồi, dẫn dắt nền kinh tế.
Tình thế đặc biệt cần giải pháp đặc biệt
- Về giải pháp tín dụng: trong đó sử dụng nguồn vốn từ NSNN (vốn đầu tư công chưa sử dụng) giao cho NHNN quản lý điều phối để tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng. Thời gian thực hiện trong 2 năm 2022-2023.
- Về triển khai: Theo kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn, chẳng hạn như CHLB Đức và Thụy Sĩ, Chính phủ ủy quyền cho NHNN thực hiện cho vay tái cấp vốn với lãi suất ưu đãi cho mục đích tài trợ vốn lưu động, gồm 2 cấu phần tiền lương cho công nhân viên, các chi phí lưu động duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh khi thực hiện biện pháp giãn cách và phương án phục hồi sản xuất kinh doanh sau dịch.
- Về đối tượng thụ hưởng: Các DN được tiếp cận gói tín dụng này là DN sử dụng nhiều lao động nằm trong các khu vực đang thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt DN có lợi thế về thị trường đầu ra và xuất khẩu cần được ưu tiên hỗ trợ làm động lực phục hồi kinh tế sau dịch.
3 phương án thực hiện chính sách đặc thù
Trong hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn chồng chất theo những cách chưa bao giờ có như hiện nay, cần mạnh dạn thực hiện những giải pháp đặc biệt, mới hy vọng sự chuyển biến có tính đột phá.
Theo đó
- Phương án 1: Duy trì hoạt động DN, hạn chế tối đa số DN dừng hoặc đóng cửa do không tiếp cận được nguồn vốn, dù có thị trường và năng lực sản xuất. Về bản chất, số tiền này đã nằm trong tổng số vốn đầu tư Quốc hội đã phê duyệt, không tạo ra bội chi NS trong giai đoạn 5 năm, tức vẫn đảm bảo các chỉ tiêu về bội chi NS do Quốc hội đề ra.
Do vậy, chính sách mới này cần được nằm trong các chính sách đặc thù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội thông qua, ủy quyền cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp xử lý để đối phó với tác động của dịch bệnh.
- Phương án 2: Phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) để có nguồn lực thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ hỗ trợ DN phục hồi sau đại dịch và tái cơ cấu nền kinh tế. Trong những năm tới, một trong những nhiệm vụ tiên quyết, hàng đầu Chính phủ đã xác định là thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế.
Điều cần lưu ý, nguồn vốn cho vay để tái cơ cấu kinh tế (lấy từ nguồn phát hành trái phiếu) được dành cho những DN có tiềm năng tạo ra đột phá về tái cơ cấu kinh tế, được lựa chọn theo quan điểm của Chính phủ.
Kiến nghị này xuất phát từ một số cơ sở
- Thứ nhất: Để tái cơ cấu kinh tế, Chính phủ cần có nguồn lực thực sự.
- Thứ hai: Muốn định hướng hoạt động của DN theo quy hoạch của mình, Chính phủ cần tạo cho DN môi trường hoạt động bình đẳng với quốc tế, trong bối cảnh quy mô tài chính, công nghệ của các DN trong nước còn non yếu hơn, chưa làm chủ được thị trường, kinh nghiệm thương trường còn mỏng…
Khi có nguồn lực từ trái phiếu, Chính phủ có thể sử dụng để cho DN vay theo từng gói nhiệm vụ cụ thể với các cam kết cụ thể như để tạo việc làm, hay đầu tư để bảo vệ môi trường…
Phương án 3: Sử dụng đòn bẩy từ DNNN. Chính phủ giao Ủy ban Quản lý vốn chịu trách nhiệm điều phối nguồn lực của các tập đoàn, tổng công ty (TĐ, TCT) đang quản lý để đầu tư vào những dự án trọng điểm Chính phủ quyết định sẽ đầu tư trong giai đoạn 2021-2030, như tuyến đường sắt khổ 1.435mm chạy dọc đất nước.
Các TĐ, TCT nhà nước phải hợp vốn để nghiên cứu, trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư. Hoặc các DN thuộc thành phần kinh tế khác tham gia dự án phát triển năng lượng bền vững, Nhà nước có trách nhiệm tạo thị trường đủ lớn để tiêu thụ sản phẩm của DN bằng luật và các quy định về môi trường.
Discussion about this post